Subscribe Us

header ads

Quy trình kỹ thuật canh tác cây sầu riêng

I. Giới thiệu

Sầu riêng là loại cây ăn trái khó tính, đòi hỏi người trồng phải nắm vững kỹ thuật canh tác và tốn nhiều công chăm sóc mới cho thu hoạch được lâu dài. Chính vì vậy, việc đưa ra quy trình kỹ thuật canh tác là một trong những khâu quan trọng quyết định sự thành công trong quá trình sản xuất cây sầu riêng.

II. Đặc tính thực vật

1 Rễ: Rễ cây sầu riêng là dạng rễ cọc, bộ rễ có thể ăn sâu 5 - 6m. Sự phân bố của bộ rễ phụ thuộc vào tính chất đất, mực nước ngầm nơi trồng, hình thức nhân giống như gieo hạt, ghép và kỹ thuật chăm sóc.

2 Thân: Sầu riêng là cây thân gỗ cao lớn, trong tự nhiên cây sầu riêng có thể đạt độ cao từ 25 - 40m; thân mọc thẳng, vỏ thô ráp với đường kính lên đến 1,2m. Tuy nhiên, trong thực tế sản xuất chiều cao cây thấp hơn (trung bình từ 10 - 15m). Tán to phía dưới và nhỏ dần lên phần ngọn. Nhánh mọc hơi ngang nhất là lúc cây mang trái. Ngọn non có màu đồng với các vảy nhỏ bao phủ khi còn non.

3 Lá: Lá đơn, mọc so le, phiến lá dày hình trứng thuôn dài, phần phía cuống lá có dạng hơi nhọn đến gần tròn nhưng nhọn ở phần phía chót lá, mặt trên lá có màu xanh đậm, phẳng và bóng láng; mặt dưới màu nâu nhạt óng ánh.

4 Hoa: có mùi hương; cuống hoa đính thành từng chùm treo trên cành. Thời gian hoa phát triển từ khi mới nhú đến nở hoa khoảng 1 tháng. Khi trưởng thành hoa nở để lộ 5 đài hoa liên kết với nhau và 5 cánh hoa có màu gần giống với màu thịt quả. Hoa thuộc loại lưỡng tính, nhị đực và nhụy cái trong cùng một hoa. Tuy nhiên quá trình tự thụ phấn hiếm khi xảy ra vì khi hoa nở (thường từ 15 giờ đến nửa đêm) nhụy cái và nhị đực không nở cùng một lúc. Thông thường phải được thụ phấn chéo để đậu quả. Tuy nhiên có một vài giống có khả năng tự tương hợp cao.

          Khi hoa sầu riêng nở, hấp dẫn nhiều loài côn trùng như: ong, bướm, muỗi, kiến… Tuy nhiên, cấu trúc hoa sầu riêng là dạng đặc trưng cho kiểu thụ phấn nhờ dơi và bướm đêm (chủ yếu Eoncyteris spelea).

5 Trái: Cây sầu riêng có thể bắt đầu cho trái từ 4 - 5 năm sau khi trồng. Trái chín sau khoảng 3 - 4 tháng từ khi hoa được thu phấn. Màu của trái có thể từ xanh sang nâu, hình dạng thuôn đến tròn. Bên ngoài có lớp vỏ cứng bao với gai nhọn, mùi thơm đặc trưng. Phần ăn được là phần thịt (cơm) bao quanh hạt cứng, thịt trái bắt đầu hình thành từ 4 tuần sau khi hoa được thụ phấn. Lúc đầu là một lớp mỏng màu trắng sau đó mở rộng bao phủ toàn bộ hạt. Độ dày và chất lượng thịt trái thay đổi rất lớn giữa các giống.
III. Yêu cầu sinh thái

1. Nhiệt độ

          Sầu riêng là cây ưa khí hậu nóng, ẩm, nhiệt độ ổn định không quá cao hoặc quá thấp. Cây có thể sinh trưởng và phát triển trong vùng có nhiệt độ từ 20 - 40oC, nhưng tốt nhất từ 24 - 30oC. Nhiệt độ quá thấp sẽ khiến cây sầu riêng bị rụng hoa và ngừng sinh trưởng.

2. Lượng mưa

          Lượng mưa phân bố đều từ 1.500 - 3.000mm/năm là thích hợp. Cây sầu riêng cần nhiều nước nên lượng mưa phải cao và đặc biệt phải phân bố đều trong năm, mùa khô không quá 3 tháng. Khi trái già thì không nên có mưa nhiều, nhất là trong thời kỳ quả chín mà xuất hiện mưa nhiều sẽ khiến cơm bị nhão. Độ ẩm không khí tối ưu đạt 75- 80%.

3. Đất trồng

          Cây sầu riêng thích hợp trồng ở những vùng đất màu mỡ (đất thịt, phù sa, đất đỏ badan,…) và thoát nước tốt. Bộ rễ chịu phèn và chịu mặn kém nên chỉ thích hợp ở những vùng đất có pH từ 5 - 6. Đất có nhiều chất hữu cơ sẽ giúp cây đạt năng suất cao hơn. Trong quá trình trồng cần chú ý cải tạo đất và tạo hệ thống cấp, thoát nước tốt để phòng ngừa nấm phytophthora gây bệnh xì mủ thân, cháy lá và thối trái. Cây thích hợp trồng trên nền đất bằng phẳng, không quá dốc.

IV. Quy trình kỹ thuật canh tác

1. Giống

          Trước đây đa số nhà vườn thường trồng sầu riêng bằng hạt, do sự hiểu biết về cây sầu riêng chưa nhiều. Đến nay, việc trồng sầu riêng bằng hạt không còn nữa bởi sầu riêng là cây thụ phấn chéo bắt buộc, do đó sự phân ly ở thế hệ sau là rất lớn. Ở những vườn trồng sầu riêng bằng hạt thường có chất lượng trái không đồng nhất và kém hơn so với cây mẹ.

Hiện nay, ở Miền Nam nước ta có nhiều giống sầu riêng được trồng với nhiều dạng trái, trọng lượng và phẩm chất khác nhau. Riêng ở tỉnh Vĩnh Long, có các giống sầu riêng được trồng phổ biến như:

1.1 Giống sầu riêng cơm vàng sữa hạt lép

Giống này có tán cây khá tròn đều, năng suất đạt hơn 100 trái/cây/năm.

Trái phân bố đều, ít nhiễm sâu bệnh nguy hiểm, trọng lượng trái trung bình từ 3 - 3,5kg, dạng trái cân đối, cơm vàng đều, tỷ lệ cơm 29,6%, tỷ lệ hạt lép 60%, vị béo, ngọt, thơm.

Giống này có nguồn gốc ở Cái Mơn, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre.

1.2 Giống sầu riêng RI-6

Giống có tán cây tròn đều, năng suất đạt cao khoảng 150 trái/cây/năm và ổn định liên tục trong nhiều năm.

Trái phân bố đều trên cây, ít nhiễm sâu bệnh nguy hiểm, trọng lượng trái trung bình từ 3 - 3,5kg, dạng trái cân đối, thon dài hơi nhọn đầu. Cơm có màu vàng, ráo, tỷ lệ cơm trên trái khoảng trên 30%.

Giống này có nguồn gốc ở ngoài nước. Sau khi về Việt nam được chọn tạo và trồng nhiều ở tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre, Đông Nam Bộ và Miền Trung.
1.3 Giống sầu riêng Monthong

Giống sinh trưởng phát triển khá mạnh, tán thoáng, cành thưa và vuông gốc với thân. Tuy nhiên, giống này hơi ít trái.

Trái phân bố đều trên cây, ít nhiễm sâu bệnh nguy hiểm, trọng lượng trái trung bình từ 3 - 4,5kg, trái có hình bầu dục dài, phía đuôi thon phía đầu hơi nhọn, cơm rất dày và có màu vàng, tỷ lệ phần ăn được khoảng 30%, thời gian bảo quản được lâu. Tuy nhiên, khi áp dụng quy trình chăm sóc không phù hợp (không đúng) thì thịt trái dễ bị sượng.

Giống này có nguồn gốc ở ngoài nước. Sau khi về Việt nam được chọn tạo và trồng nhiều ở tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre và Đông Nam Bộ.
2. Kỹ thuật trồng

2.1 Mùa vụ

Ở tỉnh Tây Nguyên, cây sầu riêng có thể trồng được quanh năm nếu đảm bảo được nguồn nước tưới. Nhưng tốt nhất là nên trồng vào đầu mùa mưa.

2.2 Khoảng cách trồng

          Sầu riêng là cây lâu năm, ưa sáng do đó cần trồng thưa để vườn được thông thoáng, cây khoẻ mạnh, nên trồng với khoảng cách 6 - 8m/cây, mật độ 120-200 cây/ha.

2.3 Chuẩn bị đất trồng

Chọn những vùng đất màu mỡ (đất thịt, phù sa, đất đỏ badan,…) chủ động nước, có đê bao khép kính, có pH từ 5 - 6 và không nhiễm phèn, mặn.

Lên liếp: + Liếp đơn trồng một hàng nên làm liếp rộng 4 - 5m, mương rộng 1 - 1,5m.

                + Liếp đôi trồng hai hàng nên làm liếp rộng 7 - 10m, mương rộng 1 - 1,5m.

          Nên chuẩn bị đất trồng sầu riêng theo nguyên lý đắp mô và đào hố trồng trên mô vì làm như vậy có nhiều thuận lợi như: đất không bị ngập úng cục bộ và có lợi cho việc xử lý cho sầu riêng ra hoa nghịch vụ sau này… Mô có thể đắp với đường kính từ 1 - 2m, chiều cao từ 0,5 - 1m. Hố trồng có thể đào với kích thước 0,6 x 0,6 x 0,6m, đất trồng cây cần có độ tơi xốp, giàu chất dinh dưỡng kết hợp bón lót từ 5-10kg phân hữu cơ đã được ủ hoai + 50gam N:P:K 16:16:8 hoặc 20:20:15/hố.

Chú ý: Nên thường xuyên bồi mô cho cây sầu riêng (vào mùa nắng) để tránh sạt lở ảnh hưởng không tốt đến cây. Trên những vùng đất có địa hình thấp, nên xẻ liếp, mương để giúp thoát nước tốt, nâng cao tầng canh tác.

2.4 Trồng cây chắn gió

          Sầu riêng là cây cao to nhưng gỗ dòn dễ gãy, do đó nên chọn cây có độ cao hợp lý, khó đổ ngã và chắc gỗ để trồng xung quang vườn làm cây chắn gió cho sầu riêng.

2.5 Kỹ thuật canh tác và chăm sóc sầu riêng

a. Đặt cây con

          Sau khi chuẩn bị hố trồng 7-10 ngày tiến hành đặt cây con vào hố trồng. Nếu trồng bằng cây ghép mắt nên xoay mắt ghép về hướng gió chính trong năm. Sau trồng nên lấp đất ngang mặt bầu cây con, cắm cây giữ chặt không để gió làm lung lay, sau đó che bóng cho cây và tưới nước.

          Sau khi trồng cần che bớt ánh sáng mặt trời trực tiếp cho cây. Tuy nhiên, không nên che quá 50% ánh sáng mặt trời.

b. Trồng xen che phủ đất

          Do sầu riêng là cây lâu năm nên được trồng với khoảng cách rất thưa, do đó trong những năm đầu mặt đất chịu ảnh hưởng trực tiếp của mưa nắng, nên cần phải trồng cây ngắn ngày để che phủ đất và lấy ngắn nuôi dài, có thể trồng các loại cây họ đậu, cây rau màu để vừa che phủ mặt đất vừa tạo vùng tiểu khí hậu cho cây sầu riêng và cung cấp thêm dinh dưỡng cho đất.

 Nhưng không nên trồng các cây như: đu đủ, ca cao trên vườn sầu riêng vì các cây này cùng là ký chủ của nấm phytophthora palmivora, đây là loại nấm gây bệnh thối gốc chảy nhựa, cháy lá, thối bông, thối trái sầu riêng,….

c. Tỉa cành tạo tán

          Phải tiến hành tỉa cành và tạo tán cho cây ở thời kỳ kiến thiết cơ bản nhằm giúp cây có bộ tán tròn đều, thông thoáng và hạn chế sâu bệnh. Đồng thời, sau mỗi vụ thu hoạch xong cần phải tỉa cành cho cây sầu riêng.

- Các cành cần tỉa bỏ:

          + Cành mọc đứng, cành bên trong tán.

          + Cành ốm yếu.

          + Cành bị sâu bệnh.

          + Cành mọc quá gần mặt đất.

- Giữ lại các cành:

          + Cành mọc ngang.

          + Cành khoẻ mạnh.

          + Cành ở độ cao hợp lý (cao từ 1m so với mặt đất).

          Tóm lại: cần tiến hành cắt tỉa cành sớm để khỏi lãng phí dinh dưỡng, cây có tán cân đối và khi cây lớn cành mang trái cách mặt đất ít nhất 1m. Khi cây lớn phải tỉa bỏ tất cả các cành bên trong tán, đảm bảo tán cây thông thoáng, hạn chế sự gây hại của sâu bệnh. Ngoài ra chúng ta còn có thể tỉa ngắn lại cành bên ngoài tán cây giúp vườn thông thoáng và cây nhận nhiều ánh sáng giúp cây khoẻ mạnh, trái có chất lượng cao. Bên cạnh đó, để giảm chiều cao cây có thể tiến hành cắt ngọn sầu riêng nhằm giúp dễ dàng trong việc chăm sóc và hạn chế thiệt hại do gió, bão….

d. Tỉa hoa, tỉa bớt trái trên cây

          Sầu riêng là loại cây cho nhiều hoa, số lượng hoa cao gấp nhiều lần số lượng trái cần có trên cây, do đó phải tỉa bớt hoa, chỉ giữ lại từng khóm hoa xa nhau trên cành. Khi đậu trái cần tỉa bỏ những trái: mọc dày đặc, trái méo mó, trái bị hại do sâu bệnh….. Số trái giữ lại trên cây tuỳ thuộc vào sức khoẻ của cây, đối với cây có đường kính tán từ 8-10m và mạnh khoẻ chỉ giữ lại khoảng 100-150 trái/cây, có như vậy cây mới đầy đủ dinh dưỡng nuôi trái phát triển tốt và đạt chất lượng cao.
e. Tưới nước và tủ gốc

          Tưới nước cho cây sầu riêng là điều rất cần thiết, bởi vì nước là môi trường bắt buộc phải có để các phản ứng sinh hoá xảy ra.

          - Giai đoạn cây con: tưới nước để giảm tỷ lệ cây chết, giúp cây mạnh khoẻ nhanh cho trái.

          - Giai đoạn chuẩn bị ra hoa: ở thời điểm 1 tuần trước khi ra hoa cần giảm 2/3 lượng nước ở mỗi lần tưới.

          - Giai đoạn ra hoa: cần tưới nước cách ngày để cho hạt phấn khỏe mạnh tăng khả năng đậu trái.

          - Giai đoạn đậu trái: tiến hành tưới tăng dần lượng nước đến mức bình thường trở lại giúp trái phát triển khỏe, đạt chất lượng tốt.

         - Giai đoạn trái chín: nhu cầu độ ẩm của cây giảm, nên cần giảm lượng nước tưới. Trong thời kì này không nên tưới quá nhiều nước vì trái sẽ chín muộn.

Ngoài việc chủ động nguồn nước tưới cho vườn sầu riêng thì việc tủ gốc giữ ẩm cũng rất quan trọng. Có thể sử dụng rơm, cỏ khô, bèo khô, lục bình khô để tủ quanh gốc. Tủ gốc giữ ẩm vừa là biện pháp hữu hiệu để trừ cỏ gốc, sau một thời gian vật liệu tủ gốc sẽ bị phân huỷ tạo ra lớp thảm mục giúp cải tạo đất. Cũng có thể kết hợp tiến hành tủ gốc cho sầu riêng ngay sau khi bón phân hữu cơ để tránh được sự phân huỷ nhanh hàm lượng mùn trong phân hữu cơ dưới ánh nắng trực tiếp của mặt trời.

f. Phân bón

          - Giai đoạn cây con và những năm đầu cho trái: Bón từ 10 - 20kg phân hữu cơ/gốc kết hợp với phân vô cơ N:P:K = 18-11-5-3 hoặc N:P:K = 15-15-6-4  với liều lượng và số lần bón như sau:

- Giai đoạn cây cho trái ổn định:

          Lần 1: Ngay sau thu hoạch xong cần cắt tỉa cành và bón phân hữu cơ từ 20 - 30kg/cây và kết hợp với phân vô cơ nhằm giúp cây phục hồi và tạo sinh khối nhanh, khoẻ mạnh trong thời gian ngắn nhất.

          Lần 2: Ngay sau khi lá cơi đọt 1 thành thục tiến hành bón phân lần 2 nhằm bổ sung thêm dinh dưỡng cho cây để nuôi bộ lá cơi đọt tiếp theo được tốt hơn.

          Lần 3: Trước khi ra hoa 30-40 ngày bón phân vô cơ có hàm lượng lân cao để giúp cây phân hóa mầm hoa tốt và quá trình ra hoa dễ dàng.

          Lần 4: Khi trái sầu riêng to bằng trái chôm chôm cần bón phân có hàm lượng kali cao để giúp trái phát triển nhanh và đạt chất lượng cao.

          Lần 5: Vào khoảng một tháng trước khi thu hoạch cần bón kali dạng kali sulphate nhằm nâng cao chất lượng trái. Nhìn chung đối với cây có đường kính tán 8-10m đang phát triển bình thường có thể bón 0,5-1,0kg/cây.

          Ngoài ra còn có thể sử dụng phân bón lá có hàm lượng kali cao để góp phần nâng cao phẩm chất trái. Có thể phun phân bón lá khoảng 5 lần mỗi lần cách nhau một tuần bắt đầu từ tuần thứ 5 sau đậu trái, vào thời gian này tránh phun phân bón lá có hàm lượng đạm cao kích thích cây ra lá mới cạnh tránh dinh dưỡng với trái đang phát triển, làm giảm phẩm chất trái: cơm trái bị sượng, bị nhão….

          * Lưu ý:

          Tuyệt đối không dùng phân có sử dụng nguyên liệu Clo để bón cho sầu riêng, vì chính Clo sẽ làm giảm phẩm chất trái khi lượng Clo trong đất trong cây đạt đến ngưỡng gây hại.

Phân bón lá là phụ thêm với phân bón gốc để tăng kích thước và phẩm chất trái, không nên chỉ sử dụng phân bón lá như trên để thay thế phân bón gốc.

g. Xử lý ra hoa

          Mùa ra hoa tự nhiên của sầu riêng thay đổi tùy theo giống và điều kiện khí hậu của từng nơi. Riêng ở Vĩnh Long, thì nông dân thường xử lý cho cây sầu riêng ra hoa vào khoảng tháng 10-11 dương lịch và thu hoạch vào khoảng 4-5.

Trong các bước xử lý cho cây sầu riêng ra hoa nghịch vụ thì kỹ thuật chăm sóc cây sau thu hoạch đóng vai trò quyết định đến các giai đoạn sau và kết quả đạt được trong suốt quá trình xử lý. Do đó, đầu tư vào giai đoạn này là rất quan trọng. Khi cơi đọt thứ 2 chuyển sang lá lụa thì tiến hành xử lý cho cây ra hoa.

- Bước 1: sử dụng MKP (0 – 52 - 34) phun ướt toàn lá nhằm giúp lá mau thuần thục.

- Bước 2: khoảng 15 ngày sau, tiến hành phun paclobutrazol đều lên hai mặt lá khi lá đã phát triển hoàn toàn, kết hợp với rút cạn nước trong mương và đậy nylon trên mặt liếp.

- Bước 3: sau khoảng từ 20 - 30 ngày thì cây bắt đầu ra hoa. Cần chấm dứt quá trình kích thích ra hoa khi thấy mầm hoa xuất hiện. Tiến hành dỡ nylon ngay, bón phân và tưới nước cho mầm hoa phát triển. Sau đó nông dân nên bón phân N:P:K = 15 -15 -15 với liều lượng 0,5 - 1kg/cây để thúc mầm.

h. Thụ phấn nhân tạo

          - Sầu riêng là loài hoa thụ phấn vào ban đêm, các trái bị méo mó là do quá trình thụ phấn không hoàn toàn. Do đó để làm tăng quá trình thụ phấn cho Sầu Riêng và khắc phục hiện tượng trái bị méo mó ta nên tiến hành thụ phấn bằng tay cho cây vào lúc 21-22 giờ.

          - Thụ phấn bằng tay có thể tiến hành như sau: thu nhị của giống cần lấy hạt phấn cho vào lọ đến lúc nhị tung phấn dùng cọ mịn phết nhẹ vào bao phấn để hạt phấn dính vào cọ và dùng cọ này phết thật nhẹ trên nuốm nhụy của giống cần thụ phấn bổ sung để truyền hạt phấn đến nuốm nhụy giúp quá trình thụ phấn diễn ra dễ dàng.

3. Thu hoạch

Thời gian thu hoạch trái sầu riêng tùy theo từng giống, nhưng trung bình khoảng 105-120 ngày từ khi hoa được thu phấn.

Khi trái Sầu Riêng chín có mùi thơm rất đặc trưng và tự rụng, nhưng nên thu hoạch trái già từ trên cây là tốt nhất.

Riêng đối với một số giống sầu riêng khi chín cơm nhão như giống cơm vàng sữa hạt lép thì nên thu hoạch vào lúc trái già hoàn toàn, như vậy khi trái vừa chín ăn sẽ không nhão như để chín tự nhiên.

IV. Sâu bệnh hại chính trên cây sầu riêng

4.1 Côn trùng gây hại trên cây sầu riêng

4.1.1 Rầy phấn  (Allocaridara maleyensis)

Đây là côn trùng gây hại rất quan trọng và phổ biến trên vườn sầu riêng. Ở giai đoạn ấu trùng và trưởng thành, rầy gây hại bằng cách chích hút lá non và đọt non, làm cho lá không phát triển, bị biến dạng, cháy mép lá dần dần khô và rụng. Đọt non có thể bị khô và chết, trơ cành mà có thể nhầm với triệu chứng do bệnh. Vết chích do rầy gây ra có thể tạo điều kiện cho nấm bệnh xâm nhập gây hại.

Con trưởng thành dài khoảng 2,5-3,0 mm, cánh trong suốt, toàn thân màu vàng nhạt. Trứng được đẻ thành từng đám trên lá non trong mô lá. Khi mới đẻ trứng có màu vàng, dần chuyển sang màu nâu. Ấu trùng bên ngoài phủ lớp sáp mỏng và các tua sáp kéo dài ở cuối thân. Trưởng thành và ấu trùng tuổi lớn thường di chuyển nhanh khi thấy động và thường tập trung ở mặt dưới lá sầu riêng.

Rầy phấn phát triển mạnh trong mùa khô. Lây lan nhanh từ vườn này sang vườn khác. Mật độ trong mùa mưa giảm nhanh, tuy nhiên sẽ tăng mật số rất nhanh khi mùa khô đến. Cây bị hại nặng có lá thưa thớt, quăn queo, lá non rụng nhiều và khô ngọn. Cây không phát triển được tán dẫn đến ra hoa ít, đậu trái kém, trái bị sượng, phẩm chất kém. Rầy tiết nhiều chất mật được tạo điều kiện cho nấm bò hóng phát triển làm đen lá, trái.

Biện pháp phòng trừ:

          - Ngoài tự nhiên có nhiều loài thiên địch của rầy phấn như nhện, bọ rùa Coccinella, Chrysopa sp., và ong ký sinh, do đó cần tạo điều kiện thuận lợi cho các loài thiên địch phát triển để khống chế rầy.

          - Tưới đủ nước và bón phân cân đối giúp cây khỏe mạnh tăng sức đề kháng. Tăng cường bón phân hữu cơ. Nên tủ gốc hoặc duy trì một lớp cỏ giữ ẩm trong mùa khô.

          - Phun nước mạnh trên tán lá để hạn chế sự hoạt động của rầy.

          - Sử dụng bẩy màu vàng để thu hút thành trùng.

          - Khi mật số rầy cao, có thể phun các loại thuốc có hoạt chất như: Buprofezin, Imidacloprid, Fenobucarb, Fipronil,… (Để đạt được hiệu quả phòng trị cao nên sử dụng luân phiên gốc thuốc).
4.1.2 Sâu đục trái (Conogethes punctiferalis)

          Đây là đối tượng gây hại khá phổ biến trên các vườn trồng sầu riêng. Trứng được đẻ trên trái non, nở ra sâu non đục vỏ trái vào bên trong trái và tiếp tục đục cho đến thịt trái. Chúng hóa nhộng ngay trên đường đục hoặc chui ra bên ngoài trái nhả tơ kết kén hóa nhộng trên mặt vỏ trái giữa các gai trái. Giai đoạn này kéo dài khoảng 7-8 ngày.

          Do đặc tính trái sầu riêng thường mọc thành chùm nên thường bị tấn công gây hại ở phần tiếp giáp giữa hai trái. Trái non bị hại dễ bị biến dạng và rụng sớm. Vết đục còn tạo điều kiện cho vi sinh vật xâm nhập gây thối trái.

Biện pháp phòng trừ:

          Trong tự nhiên có rất nhiều nhóm thiên địch của sâu đục trái như bọ xít ăn mồi, nhện ăn thịt, kiến vàng và chim sâu, …. Vì vậy, cần phải bảo vệ các nhóm thiên địch trong vườn và phát huy vai trò của chúng.

          Tỉa trái để loại bỏ trái sâu và tiêu huỷ. Tỉa trái còn giúp hạn chế các trái mọc thành chùm dễ bị sâu tấn công.

          Khoảng 20 ngày sau khi đậu quả cần tiến hành thăm vườn nếu phát hiện  có từ 5 - 10% trái bị nhiễm sâu thì có thể sử dụng thuốc để phòng trị. Do đặc tính khi sâu xâm nhập vào bên trong trái hiệu quả phun thuốc kém nên cần thăm vườn thường xuyên để phát hiện sớm và phòng trị kịp thời.
4.1.3 Sâu ăn bông

          Bướm đẻ trứng trên chùm bông nở ra sâu non tấn công trên chùm bông. Sâu non ăn phá các phần non của bông làm hư hại hay rụng sớm. Do mật số sâu cao (mỗi bướm cái có thể đẻ từ 50-60 trứng) nên dễ gây thiệt hại đến năng suất. Bướm có màu vành nhạt dài 28-32 mm, sâu non có nhiều lông (dạng sâu róm), hoạt động mạnh.

Biện pháp phòng trừ:

          - Cần thăm vườn thường xuyên từ 2-3 ngày/lần giai đoạn cây đang ra hoa nhằm phát hiện bướm, tìm diệt ổ trứng và sâu non. Khi sâu mới nở mẫn cảm cao với thuốc nên rất dễ phòng trừ. Thường sâu gây hại trên diện rộng nên cần quan sát tất cả các chùm hoa trên các cây.

          - Cần phát huy vai trò của kiến vàng ngăn chặn và hạn chế sâu gây hại.
4.1.4 Rệp sáp (Planococus sp.)

          Rệp sáp gây hại trên cây sầu riêng có nhiều loài, Planococcus sp. thường thấy gây hại trên lá và Pseudococcus sp. thường thấy hại trên trái (rệp sáp gây hại trên trái phổ biến hơn trên cành lá).

Rệp bám trên bề mặt và chích hút chất dinh dưỡng làm cho bộ phận bị hại phát triển kém. Gây hại nghiêm trọng làm cho trái dễ bị sượng. Rệp sáp bài tiết chất mật đường tạo điều kiện cho nấm bồ hóng phát triển.

Rệp sáp thường phát triển mạnh trong mùa khô và đây cũng là mùa sầu riêng ra hoa, đậu quả nên trái dễ bị tấn công hơn.
Biện pháp phòng trừ:

          - Duy trì ẩm độ không quá thấp trong mùa khô bằng lớp phủ xanh trên mặt đất (cỏ phủ đất), tăng cường bón phân hữu cơ và tưới đủ nước cho cây cũng góp phần làm giảm rệp sáp trong mùa khô.

          - Tưới phun trên tán tạo ẩm độ cao cũng hạn chế được rệp sáp.

          - Có nhiều nhóm thiên địch có sẳn trong tự nhiên có thể hạn chế rệp sáp như Bọ rùa và Ong ký sinh cần duy trì và phát huy vai trò của chúng.

          - Tỉa bỏ những bộ phận bị hại nặng và tiêu huỷ. Tỉa bỏ trái mọc từng chùm hoặc mọc gần nhau tạo chổ ẩn trú của rệp sáp.

          - Chỉ phun thuốc trong trường hợp cần thiết. Ưu tiên sử dụng các loại thuốc ít ảnh hưởng với thiên địch (dầu khoáng DC -Tron Plus, thuốc trừ rệp có nguồn gốc sinh học, thuốc ít độc….).

4.1.5 Sâu đục thân cành  (Cerambycid)

Sâu đục thân (Plocaederus ruficoruis) thuộc họ xén tóc (Cerambycidae), bộ cánh cứng (Coleoptera), Con trưởng thành thường có thân màu nâu, kích thước thân dài từ 25 - 30 mm, trên thân có phủ một lớp lông màu xám, trong giai đoạn trưởng thành thì sâu đục thân thường không còn khả năng gây hại đến cây sầu riêng.

Sâu non có thân hình dài từ 30 - 45 mm, thân có màu trắng sữa. Những con trưởng thành thường đẻ trứng vào những kẻ của thân cây, các vết nứt hoặc nhánh cây nên khi trứng nở, ấu trùng có thể men theo những đường này tấn công vào thân hoặc cành cây và cắn phá. Sau khi lớn ấu trùng sẽ chui ra khỏi cây để làm kén.

Sâu non sau khi chui vào trong thân cây và cắn phá sẽ tạo thành những đường hầm trong thân cây, sâu non có đường di chuyển không nhất định và chúng cũng không thải phân ra các lỗ đục nên rất khó để có thể phát hiện.
Biện pháp phòng trừ:

Nên thăm vườn thường xuyên để phát hiện sớm những cành hay thân cây bị sâu đục thân tấn công.

Tiến hành cưa bỏ những cành bị sâu đục thân gây hại và tiêu hủy ra khỏi vườn.

Xén tóc rất thích ánh đèn nên bà con có thể tiến hành dùng bẫy đèn để bắt những con trưởng thành vào đầu mùa mưa.

Nếu phát hiện ra những cành bị sâu hại nhiều thì có thể dùng dây kẽm để soi lỗ đục, sau đó dùng bông nhúng vào thuốc trừ sâu rồi gắn vào đầu dây kẽm rồi nhét vào lỗ đục. Tiếp đến dùng đất sét hoặc vật liệu nhét bịt lỗ đục để giết chết sâu non ở trong thân cây.

4.2 Một số bệnh hại chính trên cây sầu riêng

4.2.1Bệnh thối gốc chảy nhựa

          Đây là một trong những bệnh gây hại quan trọng trên cây sầu riêng. Bệnh do nấm Phytophthora palmivora gây ra. Bệnh tấn công trên các bộ phận của cây như: thân, cành, lá, quả,... Trong đó, triệu chứng thối thân chảy nhựa là quan trọng nhất.

          Trên thân, cành: bệnh thường khó phát hiện sớm, đến khi thấy hiện tượng chảy nhựa (xì mủ) từ vết bệnh do nấm gây ra. Nếu phát hiện sớm vết bệnh nhỏ, việc phòng trừ nhanh và đạt hiệu quả cao. Nếu phát hiện muộn, vết bệnh lan rộng, nhiều vết bệnh liên kết với nhau thành từng mảng lớn dẫn đến làm cho cây suy yếu và có thể chết cây.
          Trên lá: vết bệnh ban đầu là những chấm nhỏ màu nâu, thường có dạng gần tròn, sũng nước với rìa màu vàng nhạt. Vết bệnh lan rộng nhanh trong điều kiện ẩm độ không khí cao. Vết bệnh thường bắt đầu xuất hiện từ phía cuống lá, cành non làm phần phía trên héo nhanh, rũ và chết dần.
          Trên trái: vết bệnh đầu tiên là một đốm đen nhỏ sũng nước lan rộng nhanh. Vết thối có thể lan sâu làm hỏng phần cơm bên trong của trái. Trên vết bệnh có thể thấy nấm tạo thành một lớp trên bề mặt màu trắng xám với rất nhiều bào tử và có khả năng lây lan qua gió, mưa.
Biện pháp phòng trừ:

          - Sử dụng cây giống khỏe, sạch bệnh.

          - Cần chăm sóc cây tốt, khoẻ mạnh để tăng cường sức đề kháng cho cây như cung cấp đủ nước, bón phân cân đối, che phủ đất trong mùa khô,..…

          - Trồng cây trên mô, líp để thoát nước tốt nhằm hạn chế ẩm độ cao, nhất là trong mùa mưa.

          - Mật độ trồng thích hợp, tránh trồng xen quá dày.

          - Sau khi thu hoạch xong tiến hành cắt tỉa cành, tạo tán để vườn cây thông thoáng và vét vôi thân cây từ mặt đất lên khoảng 1m để hạn chế nấm bệnh gây hại.

          - Trong quá trình chăm sóc, vận chuyển cần hạn chế gây thương tích cho cây. Phòng trừ các côn trùng gây vết thương cho cây. Vết cắt cần quét thuốc trừ nấm.

          - Tăng cường sử dụng phân hữu cơ có trộn nấm Trichoderma (50-100kg phân hữu cơ hoai/cây/năm). Nên sử dụng phân gà, phân rác vi sinh, phân bò,... được ủ hoai.

          - Khi mới phát hiện vết bệnh, tiến hành cạo bỏ phần mô chết, bôi thuốc: Norshield (đồng đỏ), Aliette 80 WP, Metalaxyl pha 1%.

          - Tiêm cây với thuốc Phosphonate là một kỹ thuật được Viện nghiên cứu cây ăn quả miền Nam phát triển. Phương pháp này có hiệu quả và giảm được chi phí khoảng 40% so với biện pháp phun thuốc.

4.2.2Bệnh thán thư

          Bệnh thường xuất hiện và gây hại quanh năm. Bệnh do tác nhân nấm Colletotrichum gloeosporioides gây ra. Bệnh gây hại nặng trên những vườn chăm sóc kém, thiếu phân, tưới nước không đầy đủ, ít chất hữu cơ, gió mạnh và không được che mát giữ ẩm thích hợp,…

          Bệnh thường gây hại trên lá, vết bệnh có thể thấy khi lá trưởng thành trở đi. Vết bệnh thường bắt đầu từ mép lá, chót lá lan vào bên trong. Đồng thời, vết bệnh cũng có thể bắt đầu từ vết thương trên lá do côn trùng, rách do gió hay do chăm sóc. Vết bệnh lan rộng thành những sọc song song có màu nâu đậm trên nền mô chết có màu nâu xám. Bệnh nặng làm lá khô cháy dần và rụng sớm, trơ cành. Bệnh làm cho cây suy yếu dần. Triệu chứng bệnh thán thư thường đi kèm với triệu chứng thiếu dinh dưỡng nhất là thiếu Kali.
Biện pháp phòng trừ:

          - Cần chăm sóc cây tốt, khoẻ mạnh để tăng cường sức đề kháng cho cây như cung cấp đủ nước, bón phân cân đối, tăng cường sử dụng phân hữu cơ,....

          - Giữ ẩm cho đất trong mùa khô bằng cách trồng cây che phủ hoặc phủ gốc với phân hữu cơ, rơm rạ, cỏ khô.

          - Sau khi thu hoạch tiến hành vệ sinh vườn, cắt tỉa cành và đem tiêu hủy để vườn cây thông thoáng.

          - Khi tỷ lệ bệnh lên cao hơn 10% có thể sử dụng các loại thuốc gốc Propineb, Mancozeb, gốc đồng,…. để phòng trị. Nên thường xuyên luân phiên gốc thuốc để tránh gây ra hiện tượng kháng thuốc của nấm bệnh.

4.2.3 Bệnh cháy lá (do nấm Rhizoctonia solani)

          Bệnh thường gây hại giai đoạn cây con trong vườm ươm và cây mới trồng những năm đầu. Hiện nay, bệnh còn gây hại trên cả vườn cây trưởng thành nơi có bộ tán lá rậm rạp hay mọc gần mặt đất ẩm. Bệnh thuờng xuất hiện một nơi sau đó lan rộng dần ra xung quanh.

Vết bệnh thường có màu xanh xám hay xám nâu. Lá non bị nhiễm bệnh giống như bị luộc trong nước sôi, màu xanh nhợt nhạt sũng nước. Các lá được kết dính với nhau do sự mọc lan của các sợi nấm. Do đó khi khô chúng dính với nhau nhưng không rụng. Hiện tượng này nông dân gọi là “tổ kiến”. Bệnh có thể tấn công lên các thân non làm khô chết phần ngọn phía trên và sau đó sẽ chuyển màu trắng xám.

          - Tác nhân gây bệnh là do nấm Rhizoctonia solani. Nấm thường phát triển trong điều kiện ẩm độ cao, thiếu ánh nắng. Sự lây lan có thể trực tiếp do sợi nấm mọc lan hoặc do hạch nấm di chuyển nhờ dòng nước. Ngoài cây sầu riêng nấm này cũng còn tấn công các loại cây non khác.

          - Mầm bệnh này thường phổ biến trong lục bình, rơm rạ, cây cỏ…do vậy sử dụng các rơm rạ, cây cỏ khô phủ đất cần lưu ý sự lây lan nguồn bệnh.
Biện pháp phòng trừ:

          - Ngăn chặn nguồn bệnh lây lan từ bên ngoài vào trong vườn (từ lục bình, rơm rạ, cỏ khô, nguồn nước chảy..)

          - Trồng cây với mật độ hợp lý để tạo độ thông thoáng và hạn chế lây lan.

          - Thường xuyên thăm vườn nhất là giai đoạn cây ra đọt non để phát hiện bệnh sớm và phòng trị kịp thời. Khi tỷ lệ bệnh cao có thể sử dụng các loại thuốc gốc Hexaconazole, Pencycuron, Cyproconazole, …

4.2.4 Bệnh đốm rong

          Bệnh thường xuất hiện ở phiến lá, đôi khi cũng xuất hiện trên cành non. Đốm bệnh có màu đỏ rỉ sắt bề mặt như lớp nhung mịn, hơi nhô lên mặt lá. Bệnh làm giảm khả năng quang hợp, cây sinh trưởng kém.

          Bệnh thường xuất hiện trên lá đã trưởng thành và trên cây già cỗi, sinh trưởng kém, vườn trồng trên đất xấu. Đối với cây con không được che mát, chăm sóc kém, bệnh có thể gây hại trên thân và cành non.
Biện pháp phòng trừ:

          - Bón phân tưới nước đầy đủ cho cây, phòng trừ các loại sâu bệnh khác giúp cây sinh trưởng tốt nhằm hạn chế được bệnh.

          - Che mát cho cây con trong mùa khô.

          - Bón nhiều phân hữu cơ giúp giữ ẩm tốt trong mùa khô.

          - Trường hợp bệnh nặng có thể sử dụng Bordeaux để phun trừ.

4.2.5 Bệnh nấm hồng

          Bệnh thường xuất hiện trên các cành nhỏ mọc ngang ở nơi phân cành. Thời tiết mưa ẩm kéo dài là điều kiện thuận lợi cho nấm bệnh phát sinh phát triển và lây lan. Bệnh do nấm Erythricium salmonicolor gây ra.

Đầu tiên những sợi nấm màu trắng phát triển bên trên vỏ cây. Sau đó hình thành lớp nấm dạng phấn hồng bao phủ bên ngoài vỏ cây. Bên dưới lớp phấn phủ ta thấy mô vỏ cây bị thâm và thối làm cho phần trên vết bệnh không được cung cấp nước và chất dinh dưỡng, sau đó lá vàng khô dần và chết. Vỏ cây có thể bị nứt ở vị trí vết bệnh. Bệnh thường làm chết cành nếu không phòng trừ kịp thời.

          Nấm bệnh lây lan qua bào tử bay trong không khí do gió, mưa, gặp điều kiện thích hợp sẽ phát triển thành vết bệnh ở nơi mới.
Biện pháp phòng trừ:

          - Không trồng cây với mật độ quá dày, tránh trồng xen rậm rạp.

          - Tỉa cành, tạo tán nhằm tăng độ thông thoáng trong tán cây và trong vườn cây.

          - Những cành bệnh nặng, cành chết do bệnh cần được cắt và tiêu huỹ ngăn ngừa lây lan.

          - Thăm vườn thường xuyên để phát hiện bệnh sơm, khi bệnh mới xuất hiện tiến hành quét lên vết bệnh các loại thuốc có hoạt chất validamycin A, cyproconazole, gốc đồng,…

Đăng nhận xét

0 Nhận xét